Chấm dứt hợp đồng lao động là một vấn đề được cả NLĐ và NSDLĐ quan tâm. BLLĐ 2019 đã có những thay đổi cơ bản; nhằm điều chỉnh tốt hơn quan hệ LĐ giữa NLĐ và NSDLĐ trong quá trình hợp tác của hai bên.

Chấm dứt hợp đồng lao động
Quyền chấm dứt hợp đồng lao động 2019

1. QUYỀN ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG (Điều 35 BLLĐ 2019)

Trong nền kinh tế thị trường năng động với cơ hội việc làm được mở rộng như hiện nay; bất kì ai cũng mong muốn tìm cho mình môi trường phù hợp với chế độ phúc lợi tốt. Việc NLĐ chuyển đổi đơn vị công tác, thay đổi công việc mới diễn ra khá phổ biến. Tuy nhiên vẫn gặp nhiều rào cản từ các quy định pháp luật. Nếu như BLLĐ 2012 còn hạn chế quyền đơn phương chấm dứt HĐ của NLĐ làm việc theo HĐ xác định thời hạn, HĐ mùa vụ, dưới 12 tháng; thì BLLĐ 2019 đã mở ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho NLĐ; tôn trọng hơn quyền của NLĐ đối với doanh nghiệp mà họ gắn bó.

Về cơ bản, BLLĐ 2019 không có sự thay đổi so với BLLĐ 2012 về số ngày báo trước đối với các loại HĐ. Cụ thể Điều 35 BLLĐ 2019 quy định như sau:

  • Đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn: báo trước 45 ngày.
  • Đối với hợp đồng xác định thời hạn có thời hạn từ 12 – 36 tháng: báo trước 30 ngày
  • Đối với hợp đồng xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng (trước đây là hợp đồng mùa vụ, hợp đồng dưới 12 tháng): phải báo trước 03 ngày.

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước

Ngoài các lý do trước đó được BLLĐ 2012 xem như là lý do chính đáng để chấm dứt hợp đồngphải báo trước cho NSDLĐ như:

Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận; Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, Bị ngược đãi, quấy rối tình dục tại nơi làm việc; Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc …..”

Thì BLLĐ 2019 đã sửa đổi quy định trên thành các trường hợp NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần báo trước. Bên cạnh đó, BLLĐ 2019 cũng bổ sung thêm các hành vi sau:

  1. NSDLĐ có hành vi đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của NLĐ.

Đây là một tiến bộ trong việc bảo vệ quyền con người, quyền được đảm bảo về sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, danh dự đã được hiến pháp và pháp luật quy định và ghi nhận trong BLLĐ mới. Quy định này cho thấy cán cân quan hệ lao động đã tiến dần đến sự công bằng, văn minh, trên tinh thần hợp tác, tôn trọng lẫn nhau cùng phát triển.

  1. NLĐ đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của BLLLĐ 2019, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Khi người lao động đến tuổi nghỉ hưu, dù thời hạn hợp đồng vẫn còn, họ vẫn có thể chấm dứt ngay HĐLĐ mà không cần báo trước nếu không muốn tiếp tục làm việc. Quy định này nhằm bảo vệ sức khỏe cho NLĐ khi độ tuổi nghỉ hưu mới của cả nam và nữ đều đã tăng lên. Họ được phép ngừng lao động, nghỉ ngơi và hưởng các chế độ (nếu có) theo quy định.

  1. NSDLĐ cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của BLLĐ 2019 làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.

Như vậy, trong trường hợp NLĐ phát hiện NSDLĐ cố tình cung cấp thông tin không trung thực khi giao kết HĐ về: thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn, vệ sinh lao động, bảo hiểm……NLĐ có quyền chấm dứt HĐLĐ ngay mà không cần báo trước là quy định hoàn toàn phù hợp. Bản chất việc giao kết HĐ luôn xuất phát sự tự nguyện hợp tác, hai bên cùng cung cấp các thông tin cần thiết để đối phương hiểu về văn hóa, môi trường làm việc, phúc lợi cùng các yếu tố khác, từ đó đưa ra quyết định có hợp tác. Khi không được hưởng quyền lợi, hoặc phải thực hiện các nghĩa vụ không có trong thỏa thuận ban đầu, mục đích giao kết được xem là không đạt được, việc cho phép NLĐ không tiếp tục hợp đồng là hoàn toàn hợp lý.

2. QUYỀN ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NSDLĐ (Điều 38 BLLĐ 2019)

Bên cạnh việc mở rộng quyền đơn phương chấm dứt của NLĐ, BLLĐ 2019 còn sửa đổi, bổ sung các trường hợp NSDLĐ được phép đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ. Quy định này nhằm tạo ra sự cân bằng, tự do trong việc thiết lập quan hệ lao động giữa các chủ thể. Với sự đổi mới của BLLĐ 2019, NSDLĐ có thể chủ động trong việc tìm kiếm các nhân sự nhiệt huyết, tận tâm, có trách nhiệm trong công việc. Đồng thời thay thế các nhân sự không đủ khả năng, thái độ làm việc không nghiêm túc, thiếu kỷ luật trong lao động để mang lại hiệu quả, năng suất cao nhất cho doanh nghiệp. Các điểm đổi mới như sau:

Các trường hợp NSDLĐ được phép chấm dứt HĐLĐ

BLLĐ 2012 cho phép NSDLĐ chấm dứt HĐLĐ nếu NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc. Tuy nhiên việc đánh giá này phần lớn vẫn dựa trên ý chí chủ quan của người quản lý, không có quy chuẩn chung, dẫn đến tranh chấp lao động xảy ra. Khắc phục nhược điểm trên, tại điểm a Khoản 1 Điều 36 BLLĐ 2019 đã quy định cụ thể:

Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử dụng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người sử dụng lao động ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở”

Như vậy, NSDLĐ phải xây dựng và ban hành quy chế nội bộ, trong đó thể hiện chi tiết các tiêu chí, phương thức đánh giá mức độ hoàn thành công việc, từ đó làm căn cứ để xác định người lao động có hoàn thành công việc hay không, hoàn thành ở mức độ nào. Quy chế này phải lấy ý kiến của tổ chức đại diện lao động cơ sở để đảm bảo sự đánh giá khách quan, công bằng, minh bạch cho người lao động.

Bổ sung các trường hợp NSDLĐ được phép chấm dứt HĐLĐ có báo trước

Quy định tại điểm đ và g điều 36 BLLĐ 2019

  • Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của BLLĐ 2019;
  • Người lao động cung cấp không trung thực thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của BLLĐ 2019 khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng người lao động.

Thêm quy định các trường hợp NSDLĐ được phép chấm dứt HĐLĐ không cần báo trước (điểm d, e Khoản 1 Điều 36)

  • Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 31 của Bộ luật này
  • Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên;

Sửa đổi thời gian báo trước khi NSDLĐ muốn đơn phương chấm dứt HĐLĐ

  • Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
  • Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;
  • Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng và đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1: “Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục………. mà khả năng lao động chưa hồi phục”.

Trên đây là một số nội dung về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của cả NLĐ và NSDLĐ mà Thongtinluat đã tổng hợp được. Hy vọng bài viết này sẽ giúp ích cho bạn trong học tập cũng như công việc của mình.