1. Không thực hiện biện pháp bảo vệ cá nhân: Không đeo khẩu trang, ra đường không có lý do chính đáng, không có giấy tờ hợp lệ…

– Mức phạt: Từ 01 triệu đồng đến 03 triệu đồng.

– Căn cứ: Điểm a Khoản 1 Điều 12 Nghị định 117/2020/NĐ-CP.

2.Không thực hiện xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan y tế có thẩm quyền: Yêu cầu xét nghiệm trên diện rộng, khi có nguy cơ nhiễm bệnh do tiếp xúc mầm bệnh…

– Mức phạt: Từ 01 triệu đồng đến 03 triệu đồng.

– Căn cứ: Khoản 2 Điều 7 Nghị định 117/2020/NĐ-CP.

3. Không khai báo y tế, khai báo gian dối hoặc khai báo không kịp thời hiện trạng bệnh của bản thân hoặc của người khác khi mắc bệnh

– Mức phạt: Từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng.

– Căn cứ: Khoản 3 Điều 7 Nghị định 117/2020/NĐ-CP.

4.Che dấu tình trạng bệnh của mình hoặc của người khác khi mắc bệnh

– Mức phạt: Từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng.

– Căn cứ: Điểm a Khoản 2 Điều 12 Nghị định 117/2020/NĐ-CP.

5.Không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tập trung đông người hoặc tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại nơi công cộng: Tụ tập ăn uống, tổ chức sự kiện…

– Mức phạt: Từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng.

– Căn cứ: Điểm c Khoản 3 Điều 12 Nghị định 117/2020/NĐ-CP.

6. Không thực hiện quyết định kiểm tra, cách ly y tế khi khi ra vào vùng dịch

– Mức phạt: Từ 20 triệu đồng đến 30 triệu đồng.

– Căn cứ: Điểm a Khoản 4 Điều 12 Nghị định 117/2020/NĐ-CP.

7.Vi phạm quy định về cách ly:  từ chối hoặc trốn tránh cách ly

– Mức phạt: Từ 15 triệu đồng đến 20 triệu đồng

– Căn cứ: Điểm b Khoản 2 Điều 11 Nghị định 117/2020/NĐ-CP

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ: Đối với các trường hợp từ khoản 1 đến khoản 7 nêu trên, nếu hành vi vi phạm dẫn đến việc lây lan dịch bệnh nguy hiểm ra cộng đồng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” với hình phạt cao nhất là 12 năm tù. Ngoài ra người phạm tội có thể bị phạt tiền lên đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (Điều 240 BLHS 2015).

8. Chống người thi hành công vụ trong phòng, chống dịch

Người có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19 thì bị xử lý theo Điều 330 Bộ luật Hình sự 2015, mức phạt lên đến 7 năm tù.

9. Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật về dịch bệnh Covid-19, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.

Trên các mạng xã hội:

– Mức phạt: Từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng.

– Căn cứ: Khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP.

Trên các trang thông tin điện tử:

– Mức phạt: Từ 10 triệu đồng đến 15 triệu đồng.

– Buộc gỡ bỏ đường dẫn đến thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn, thông tin vi phạm pháp luật.

– Buộc thu hồi hoặc buộc hoàn trả tên miền.

– Căn cứ: Khoản 3,4,5 Điều 99 Nghị định 15/2020/NĐ-CP.

Ngoài ra, người vi phạm còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 288 Bộ luật hình sự 2015 về “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông” với hình phạt cao nhất là 07 năm tù, có thể bị phạt tiền lên đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

10. Lợi dụng dịch bệnh để định giá mua, giá bán bất hợp lý đối với thuốc, trang thiết bị y tế, nguyên liệu làm thuốc, nguyên liệu sản xuất trang thiết bị y tế phục vụ phòng, chống dịch bệnh

– Mức phạt: Từ 20 triệu đồng đến 30 triệu đồng

– Tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược, chứng chỉ hành nghề dược, đình chỉ hoạt động đối với các cơ sở không thuộc diện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược trong thời hạn từ 06 tháng đến 12 tháng.

– Tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược, chứng chỉ hành nghề dược, đình chỉ hoạt động đối với các cơ sở không thuộc diện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược trong thời hạn từ 12 tháng đến 24 tháng trong trường hợp giá trị hàng hóa vi phạm trên 50.000.000 đồng hoặc trường hợp tái phạm.

– Buộc hoàn trả cho người mua hoặc người bán toàn bộ số tiền chênh lệch. Trường hợp không hoàn trả được cho khách hàng thì nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.

– Căn cứ: Khoản 3,4 Điều 14 Nghị định 117/2020/NĐ-CP.